Nhất tự vi sư , bán tự vi sư
---
1st Version:
Anyone who teaches me one word - even half a word - is still my teacher.
2nd Version:
Even he who teaches me the smallest bit can still be called my teacher
Please correct my grammar as you see fit. Much appreciated!
Ta dại, ta tìm nơi vắng-vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao-xao.
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Rượu đến gốc cây, ta sẽ nhắp
Nhìn xem phú-quý tựa chiêm bao.
--Ai đoán tên tác giả được không?
Hay!
Nhân dịp tôi cũng có một chuyện thú vị. Trong dịp đi Châu Âu, tôi và bà xã ghé qua Ba-Lê để tham-quan cái vẻ đẹp uy-nghi của Kinh-Thành Ánh Sáng. Đây là lần đầu tiên vợ tôi được tận mắt chứng kiến được sự lộng-lẫy của cái thủ-đô trứ danh này. Đang đi trên bờ sông Seine thì bà ta quay qua tôi và ra vẻ trìu mến:
"Voulez-vous aller au cinema?"
Tôi và bà xã lần mò đến một rạp chiếu phim thì không biết chọn phim gì. Trong thời điểm đang chiếu nên trước rạp vắng hoe. Sau khi nghĩ tới nghĩ lui thì tôi bèn mua đại hai vé:
"Deux billets s'il vous plait!"
Sau khi bán vé cho chúng tôi thì anh chàng phục vụ hỏi một câu giật mình:
"Anh chị là người Việt hả?"
Tôi và bà xã mừng là gặp đồng hương trên xứ sở này và đã trò chuyện vài câu. Hỏi ra là anh ấy tên Hưng đang là sinh viên nước ngoài. Lạ nhất là anh ấy học cùng trường đại học University of Arizona mà tôi lúc đó đang học. Ba người nói chuyện một lúc và sau khi trao đổi số điện thoại thì chúng tôi tạm biệt nhau. Bà xã tôi cân nhắc:
"We need to eat dinner to complete our first date in Paris!"
Tôi liền quay sang anh Hưng:
"Pouvez vous me recommender un bon restaurant?"
Anh Hưng chỉ chúng tôi đến một cái nhà hàng cách đó không xa. Bà xã tôi bèn nói:
"Hôm nay em muốn ăn cơm tối đèn cầy!"
Tôi buột miệng:
"Được, anh ăn cơm tối, còn em ăn đèn cầy!"
Last edited by LtDra; 02-26-2010 at 12:46 PM.
Thất bại lớn nhất của đời người là tự đại
Đáng thương nhất của đời người là tự ti.
Tự đại + Tự ti = thất bại đáng thương nhất
Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1565)
Sinh năm 1491, mất năm 1585, quê ở làng Trung Am nay thuộc huyện Vĩnh Bảo Hải Phòng, năm 1535 đỗ tiến sỹ, từng được vua Mạc phong tước Trình tuyên hầu nên được người đời gọi là Trạng Trình, về hưu năm 53 tuổi lập am Bạch Vân, lấy tên hiệu là Bạch Vân cư sỹ. Nguyễn Bỉnh Khiêm sống vào thời phong kiến suy vi: năm 1527, nhà Mạc tiếm ngôi của nhà Lê, nhà Lê chống lại, tạo nên tình trạng cát cứ, đánh nhau liên miên. Từ năm 1545, ông còn chứng kiến cảnh Trịnh Nguyễn phân tranh. Nhân dân lầm than ly tán. Các tập đoàn phong kiến cũng thành bại hưng vong đổi thay trong chớp mắt. Thực tiễn ấy tạo một tâm trạng bất an trong lòng người. Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trí thức lớn, là bạn là thầy nhiều nhân vật nổi tiếng, ông lại có tâm, có chí giúp nước, cứu đời nhưng không xoay chuyển được tình thế. Thay cho tiếng thở dài tuyệt vọng, như nhiều nhà thơ chán đời thuở xưa vẫn gửi vào thơ phú, Nguyễn Bỉnh Khiêm đề cao và đấu tranh cho sự trong sạch của tâm hồn con người, lên án thói đời tráo trở, vụ lợi, chà đạp lên thủy chung, tình nghĩa. Thơ ông, do vậy, nặng về nhân tình thế thái, triết lý đạo làm người. Chủ đề này vốn dễ khô khan, tư biện nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã vận dụng cách nghĩ, cách nói của nhân dân, giữ được tính sinh động thời sự của sự kiện nên câu thơ đúc kết giáo lý mà vẫn nóng hổi cảm xúc:
Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử
Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi.
Hình ảnh minh họa chân lý thường cụ thể, gần gụi trong đời sống hàng ngày, ai cũng thấy, cũng biết nên câu thơ triết lý mà không nặng nề, trái lại, được người đọc vận dụng ngay vào đời sống, biến nó thành một dạng thức biểu hiện tình cảm của chính mình trước mọi hay dở của cuộc đời:
Thớt có tanh tao ruồi đậu đến
Ang không mật mỡ kiến bò chi.
Nguyễn Bỉnh Khiêm đề cao phép tu dưỡng bản thân, dám giữ phẩm chất thanh cao khi cuộc đời ô trọc, dám từ bỏ chốn lao xao danh lợi để về nơi vắng vẻ trong sạch cho tâm hồn, xét lại nghĩa dại khôn của người đời:
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Tự nhiên trong thơ ông là tự nhiên nâng đỡ đạo đức con người, tôn vinh sự thanh khiết của tâm hồn:
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Chính ở chỗ này nhiều bài thơ của Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm bị lẫn vào nhau, đến nay vẫn còn khoảng ba mươi bài. Ngay cả giọng thơ, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất gần Nguyễn Trãi, nhất là trong các câu sáu chữ:
Lòng vô sự, trăng in nước
Của thảng lai, gió thổi hoa.
Nếu trong thơ chữ Nôm, Nguyễn Bỉnh Khiêm bàn nhiều tới phép đối nhân xử thế thì trong thơ chữ Hán ông lại thiên về mô tả, bình luận các sự kiện xã hội, chính trị tạo nên bức tranh hiện thực thời tao loạn: Nhà ở đem làm củi/ Trâu cày mổ làm thịt ăn/ Cướp đơạt tài sản không phải là của mình/ Hiếp dỗ người không phải là vợ mình. Nhiều lúc ông dùng cách diễn đạt biểu tượng tố cáo giai cấp thống trị (Ghét chuột, Cá lớn nuốt cá bé...) Nỗi lòng sâu kín của tác giả cũng được bộc lộ rõ hơn: Được yên thân trong thời loạn, biết là có sự may mắn/ Muốn cứu nước khỏi nguy nan, thẹn mình không có tài.
Tương truyền, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn là một nhà tiên tri, tác giả của nhiều lời sấm. Nhà Mạc, nhà Trịnh, nhà Nguyễn đều đến xin lời khuyên của ông để dựng nghiệp. Ông giúp tất: khuyên nhà Mạc lên Cao Bằng, khuyên nhà Nguyễn vào Hoành Sơn, khuyên nhà Trịnh đừng có lật vua Lê (giữ chùa mà ăn oản). Thế là ông đứng ngoài phe phái, tọa sơn quan hổ đấu, hay ông muốn tách các tập đoàn thù địch ấy xa nhau để nhân dân đỡ phần xương máu. Lý do thứ hai có lý hơn. Khi về hưu, ông đã cho khắc vào tấm bia ở Quán Trung Tân: Ở triều đình thì tranh nhau cái danh; ở chợ búa thì giành nhau cái lợi; khoe sang thì xe mát quán ấm; khoe giàu thì nhà múa lầu hát; thấy có người chết đói dọc đường, không dám bỏ một đồng tiền ra cứu giúp; thấy nơi trống trải không có gì che mưa, không chịu bỏ một bó tranh để che đậy. Đó là bản tổng kết cái tâm, cái chí của một đời người, giúp ta hiểu thêm nỗi lòng Nguyễn Bỉnh Khiêm gửi gắm trong thơ ông.
Đây là một đoạn trích đã bị cắt mất hai câu đầu (câu đề) trong bài thơ thứ 38 trong chùm thơ "Nhân tình thế thái" của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong tập "Bạch Vân Quốc ngữ thi tập". Nguyên văn như sau:
Một mai một cuốc một cần câuTôi khoái cái tích Vu Thần say dưới gốc hòe trong bài này.
Thơ thẩn dù ai vui thú nào
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao
Rượu đến gốc cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao