Originally Posted by
trailang1010
Doc ca? 5 trang ve` van' de` nay` minh` thay' co' 2 truong` fai'.
1 la` thien ve` muon' doi? ten Viet Nam thanh` 1 cai' ten nao` do' < vi` cho rang` cai' ten nay` la` do vua Tau` ban cho >
2 la` thien ve` ly' giai? theo su? dia va` cau tu`
Minh` co' lay' duoc 1 doan giai? thich ve` ten chu~ Viet Nam ben dien~ dan` khac'.Cac ban doc thu?.
Theo như các cụ nhà Nho giải thích ngày xưa, thì chữ VIỆT dùng để chỉ Việt Nam, thuộc bộ Tẩu, và có chứa chữ Khuyển, tức là con chó. Chính vì cái chữ Tẩu, tức là chạy này, mà người ta suy ra là người Việt bị đuổi chạy từ Lưỡng Quảng (Quảng Đông, Quảng Tây) qua Việt Nam hiện tại. Còn chữ Khuyển vì nó là « đại hán », « khinh mình » coi mình như con chó, nên nó mới có chứ đó. Người ta cũng nói rằng trong các từ chỉ các dân tộc thiểu số ở bốn phương tám hướng trong chữ Hán, đâu đó nó đều có chứ « sâu bọ » gì trong đó.
Cũng từ khoảng thế kỷ XV, khi thần tích Lạc Long Quân, được đưa vào chính sử, các cụ mới cho đất đai người Việt Nam lên tận hồ Động đình (Giang Tô, TQ). Rồi vạch ra một thần tích tổ tông lên tới Thần Nông, và từ đó suy ra là Việt Nam có 4000 năm lịch sử.
Thực ra cái phương pháp này cũng là cách thức người Trung Quốc sử dụng để viết sử của họ, ví dụ việc đưa các thần tích Phục Hi – Nữ Oa, chim Hoàng điểu thời nhà Thương vào chính sử TQ. Độ chính xác đến mức nào , thì đối với cả sử VN (học theo phương pháp) hay sử Trung quốc (bịa đặt nguyên bản) , cũng không ai rõ.
Chính vì Lạc Long Quân xuất thân từ hồ Động Đình, nên cái thuyết người Việt bị người Hán đuổi « tẩu tán » xuống phương Nam nghe càng có lý.
Hiện nay, hình như trong chữ Hán cải biên (bắt đầu từ năm 1950), thì ở lục địa Trung quốc, người ta không dùng ký tự cũ nữa.Trong khi ở Đài loan vẫn dùng ký tự cũ. Vậy không rõ, trong chữ Hán hiện đại, chữ Việt người ta có bỏ chữ Khuyển trong đó không.
Ông Bùi Nguyên Lộc, cũng có nói, ngoài chữ Việt bộ Tẩu, chỉ người Việt Nam, trong Hán tự còn hai chữ Việt nữa; Một chữ dùng chỉ nhóm Tầy-Thái, đây là chữ Việt có bộ Mễ (tức là lúa gạo), và một chữ Việt nữa trong đó có bộ Mã (tức là ngựa). Chữ Việt này dùng để chỉ người gốc Mã lai, đa đạo, mà trong các nghiên cứu về thiên di các tộc người hiện tại, người ta cho rằng người gốc Mã lai, đa đảo xuất phát thiên di từ Lưỡng quảng.
Tôi không biết cái này đúng sai thế nào. Nhưng nếu những gì ông Bùi nói là đúng, thì người Tứ Xuyên, Hồ Nam (đất Thục, Sở trước đây) sẽ là người Việt bộ Mễ. Còn người ở Phúc Kiến hiện tại tức là Mân Việt cũ sẽ là người Việt bộ Mã.
Thời hiện đại bây giờ, tức là các vị như Bùi Ngọc Thêm lại suy ra rằng chữ Việt có nghĩa là cái phủ việt, tức là cái rìu. Nhưng cho tới nay, không thấy có ai triết tự chữ Việt chỉ người Việt Nam có bộ « cái rìu » trong đó cả. Tôi thì hoàn toàn không biết gì về chữ Nho, để có thể nói là người ta có thể triết tự thế không ? Vì tôi nghĩ rằng ông Bùi ngọc Thêm chẳng hạn, có lẽ nhìn thấy cái rìu, là một đặc trưng của thời đồ đồng Đông Sơn mà suy diễn bắt triết tự chữ Hán như thế chăng.
Trong thực tế, nếu có sự di dân vào Bắc bộ thì điều đó không có nghĩa là ở đây không có dân bản địa. Cái chữ Tẩu, đúng là có nghĩa chạy thật, nhưng chạy ở đâu, thế nào, có phải là chạy trốn người Hán không thì chưa chắc. Bằng chứng, thời Bắc thuộc, sử TQ không ghi là người ở Giao chỉ, Cửu chân « chạy trốn » đi đâu cả. Trong khi việc chạy trốn như thế không phải là hiếm. Ví dụ, việc người Chàm bỏ đi khi người Việt tiến tới (những người ở lại thì bị đồng hoá).
Cái chứ chó cũng phải nghĩ lại. Vì có thể điều đó chỉ việc người Việt ăn thịt chó. Thói thường, khi một dân ngoại tộc nhìn một dân tộc khác, họ thường lấy cái đặc trưng mà họ không có để chỉ. Ăn thịt chó, thịt rắn, ếch, nhái... vốn là chuyện thường tình của người vùng nhiệt đới. Ở Quảng đông hiện tại người ta vẫn ăn thịt chó, và họ cũng được coi là có gốc Việt (như Việt nam).
Chính vì cái chữ Việt chung cho Quảng Đông và Việt Nam này, mà nhà Thanh đã tráo vị trí của nó để phân biệt, vì sợ nhà Nguyễn đòi Lưỡng quảng. Trong thư xin quan hệ bang giao , Vua Gia Long tự xưng nước của mình là Nam Việt, trong đó định nghĩa rõ ràng đó là đất Đại Việt, Chăm pa, phù nam cũ. Sợ lẫn với Nam Việt là tên lịch sử của Quảng đông, nhà Thanh mới bắt đánh tráo chữ gọi là Việt Nam