Ðây là một câu của Nguyễn Công Trứ (một cao thủ kinh bang tế thế, văn võ kiêm toàn, siêu quần xuất chúng) mà tôi rất thích. Nhiều bài phê bình các bài thơ của ông lắm, tôi sẽ gửi bài của tôi cho MANH NGUYEN qua email. Còn xin được giải thích chữ "Phiến":
- khi viết là 片: Một tấm mỏng - khoảng một nửa - một mảnh. Ví dụ "phiến nguyệt" (mảnh trăng)
- khi viết là 扇: Cánh cửa - cái quạt.
- khi viết là 煽: Quạt lửa (động từ) - Đốt cháy, làm loạn gọi là "Phiến loạn".
- khi viết là 販: Mua bán có lãi - Buôn bán.
- khi viết là 謆: Rủ rê.
- khi viết là 騙: Lừa đảo - Chỉ động tác nhảy nhanh lên ngựa.
Còn việc dịch thì phải tùy theo văn cảnh mà dịch cho hay, chắc mọi người thừa biết kiểu dịch "word by word" nó hài hước thế nào...
Môn phái của lão phu sao lại không biết:
Tiệt Quyền đạo",
có nơi đọc là "Triệt" hay Jetkundo.
Cái môn này có căn bản dựa trên Vĩnh Xuân quyền và Không Thủ đạo (Karatedo) do Lý Chấn Phiên (Lý Tiểu Long - Bruce Lee) là người khai phái vào khoảng năm 1965. Hai môn kia nghe chừng rất mâu thuẫn nhưng ông đã phối hợp rất tài tình nguyễn tắc vòng cầu, tá lực dụng lực và nguyên tắc lưu thủy của Vĩnh Xuân cho người châu Á vốn có thể trạng nhỏ bé, thêm vào đó ông chắt lọc những yếu tố, chiêu thức thực dụng, nhanh và dứt khoát của Không thủ đạo. Binh khí bao gồm cả hai phái như Côn nhị khúc (nounchaku), dao quài, đoản côn, tề mi côn, nhuyễn tiên, tiêu... Về sau dựa trên tinh thần chính của môn phái mà các đẹ tử còn đưa thêm vào Triệt quyền đạo nhiều chiêu thức của các phái khác nữa.
Hay quá. Ngày còn nhỏ cũng có người giải thích từ "lãng mạn" như vậy cho em nhưng hồi giờ chưa đọc hay chưa có ai confirm hết. Vậy ra câu đầu chữ "tẩn" chính là "tận". Cảm ơn tiền bối nhiều nhiều.
- Trong bài thơ "Mạch thượng tặng mỹ nhân" của Lý Bạch, em không bắt được cái thần của bài thơ. Các chi tiết chuẩn của văn thơ cổ như tuấn mã của phái nam, xe ngũ sắc mây, lầu hồng của phái nữ ... cũng hay và giúp hiểu thêm bài thơ. Tuy nhiên, thơ cổ thì "ý tại ngôn ngoại", nhưng cái ngôn ngoại ở đây là gì thì em chưa rõ lắm. Có lần bọn em khi nhậu còn suy ra nó là: "thằng cha cưỡi ngựa (ko được đề cập rõ trong thơ) là đẹp trai và kiêu gái" dựa trên các chi tiết "đạp lạc hoa", "kiêu hành", rồi mỹ nhân tự nhiên chỉ cho biết nhà mình ở đâu. => làm thơ tặng mỹ nhân nhưng là đề cao mình. Tiền bối có thể chỉ giáo thêm ?
Bài post trước của em có vẻ như ko phù hợp lắm trong cái thread này. Xin lỗi nếu nó làm mọi người phật ý. (Dù sao em cũng rất biết ơn nếu mọi người chiếu cố giúp đỡ).
Trở lại cái mục đích chính của thread. Các tiền bối có thể giải nghĩa giùm 2 chữ:
1/ "Thuyền quyên" (hay gặp với từ 'gái thuyền quyên')
2/ "Thụy Khanh" (Tên một người bạn em rất quí)
Mấy chữ này em đã google nhưng ko hài lòng lắm.
Tớ lục tự điển Hán Việt thì quyên là xinh đẹp, chữ thuyền đứng một mình thì có nhiều nghĩa quá. Nhưng chữ thuyền quyên thì được dịch là "đàn bà, con gái đẹp hay mặt trăng (???)" và "tư thế đẹp dáng đẹp"
Cả hai chữ đều có chữ "nữ" đứng đằng trước, bác Quang có thể giải thích thêm được không.
Thụy Khanh thì tớ đoán (mò) chừng là nghĩa "tiếng ngọc".
Thụy = ngọc
Khanh = tiếng kêu.
Tốt nhất là chờ bác Quang trả lời.
Thuyền quyên:
嬋娟
A: A fair lady.
P: Une belle fille.
Thuyền: dáng xinh đẹp. Quyên: tươi đẹp.
Thuyền quyên là người con gái dịu dàng xinh đẹp.
KTKCQV: Thiệt thòi cam phận thuyền quyên.
Thụy Khanh hay là Thoại Khanh Châu Tuấn:
http://video.google.com/videoplay?do...28066515777923
Last edited by MANH NGUYEN; 07-20-2009 at 06:50 AM.
Đa tạ hai tiền bối Paddy và Manh Nguyen, vậy tóm lại là từ điển mà nói thì chữ "thuyền quyên" nói đến một người con gái xinh đẹp, một giai nhân. Vậy sao người Việt mình hay dùng nó như một thân phận, khi đọc đến thì cảm giác là thân phận này chông chênh, gập ghềnh hay thiệt thòi (như trong ví dụ của tiền bối Manh Nguyen) ? Phải chăng cứ hồng nhan là bạc mệnh ?
- Bạn em đúng là tên Thụy Khanh, nếu đúng như là lời giải thích của tiền bối Paddy thì cái tên quả là đẹp.