Bác biết tại sao Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang không được làm vua không?
Bác biết tại sao Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang không được làm vua không?
Đọc đi thì biết liền
Chuyện Trần Quốc Khang Trưởng công chúa của Lý Huệ Tông là Thuận Thiên, nguyên trước đây gả cho con trưởng của Trần Thừa là An Sinh Vương Trần Liễu. Đến năm Đinh Dậu (1237), Thuận Thiên đang có thai được ba tháng thì bị chú là Trần Thủ Độ ép phải về làm vợ của vua Trần Thái Tông (em ruột Trần Liễu), được sách phong làm Thuận Thiên hoàng hậu.
Em ruột của Thuận Thiên là Lý Chiêu Hoàng (nữ hoàng duy nhất, cũng là cuối cùng của họ Lý) thì nguyên là hoàng hậu của Trần Thái Tông lại bị giáng làm Chiêu Thánh công chúa (1218 - 1278) vì lẽ... không có con, và sau đem gả cho Lê Tần.
Đứa con mà Thuận Thiên mang thai trước đó. Trần Liễu tên là Trần Quốc Khang, sau được phong làm Tĩnh Quốc Đại vương: Kể ra, chuyện này tuy cũng có chút lắt léo nhưng dẫu sao thì về danh nghĩa, Trần Quốc Khang vẫn là con trưởng của vua Trần Thái Tông. Thế nhưng, năm 1258, Trần Thái Tông lên ngôi thượng hoàng, truyền ngôi cho con thứ là Thái tử Trần Hoảng (tức vua Trần Thánh Tông) chứ không phải cho con trưởng là Trần Quốc Khang.
Đời cha là Trần Liễu, vì mất vợ mà sinh ra thù oán vua Trần Thái Tông nhưng đời con là Trần Quốc Khang, mang danh con trưởng mà không được truyền ngô i- cũng chẳng hề đem lòng thù hận, ngược lại, anh em vẫn rất hòa thuận vớ nhau. Có một chuyện thật là cảm động về sự hòa thuận này đã được sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 5, tờ 32 a và 32 b) chép lại như sau :
Mùa đông, tháng 10 (năm - 1268 - ND), Vua cùng anh là Tĩnh Quốc Đại vương Quốc Khang, cùng vui đùa trước mắt Thượng hoàng. Thượng hoàng lúc bấy giờ mặc áo vải bông trắng. Tĩnh Quốc múa điệu múa của người Hồ, Thượng hoàng cởi áo ban cho. Vua cũng múa điệu múa ấy để xin chiếc áo của Thượng hoàng, Quốc Khang nói : Cái quý nhất là ngôi hoàng đế mà tôi còn không tranh với chú hai, nay đức chí tôn ban cho tôi một vật nhỏ mọn này mà chú hai cũng định lấý nốt chăng. Thượng hoàng cả cười nói : “thế ra mày coi ngôi vua với cái áo xoàng này chẳng hơn kém gì nhau ư?” Khen ngợi hồi lâu, thượng hoàng liền cho Tĩnh Quốc cái áo âý”.
Lời bàn : Sử chép chuyện các vị hoàng tử lo chém giết nhau để tranh đoạt ngôi vua thì nhiều, còn nhườg nhau như anh em Quốc Khang thì quá hiếm. Vua TrầnThánh Tông trong chỗ vui đùa đã có lúc quên mất sự nhường nhịn, nhưng cái đáng nói là đã biết dừng lại khi có lời nhắc. Anh em hoà thuận đến thế, Thượng hoàng không vui sao được. Ôi! ước gì tất cả các bậc quyền cao chức trọng của mọi thời đều biết dừng lại như Thánh Tông. (Theo Việt sử giai thoại của Nguyễn Khắc Thuần - NXBGD)
Thất bại lớn nhất của đời người là tự đại
Đáng thương nhất của đời người là tự ti.
Tự đại + Tự ti = thất bại đáng thương nhất
Rất hay, thế bác có nhiều thông tin về ông hoàng tài hoa Trần Nhật Duật không? Ông này tại hạ khoái lăm, muốn viết vài điều nhưng ít tư liệu chính xác quá!
Trần Nhật Duật (1254 - 1330) Danh tướng và vương tử tài hoa
Lịch sử Việt Nam đời Trần ghi đậm rõ nét của bao anh hùng tuấn kiệt như Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Quốc Toản, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật.. Mỗi người có những sắc thái riêng biệt, tất cả tạo thành một dãy ngân hà soi sáng trong vòm trời đât Nam. Riêng Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, không những là một tướng tài chống Nguyên-Mông mà là một trong những nghệ sĩ danh tiếng nhất đời Trần.
Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật là con thứ sáu của vua Trần Thái Tông, tuy là vương tử nhưng đời sống rất xuề xòa, phóng khoáng, dễ tiếp xúc và không câu nệ. Chúng ta biết ông nhiều trong lịch sử kháng chiến chống nhà Nguyên-Mông Cổ xâm lăng lần thứ hai ở trận Hàm Tử (cửa Hàm Tử, Khoái Châu, Hải Hưng). Ông chỉ huy trận chiến thắng lừng lẫy này dọn đường cho trận chiến thắng Chương Dương của các danh tướng Trần Quang Khải và Trần Quốc Toản. Thái sư Trần Quang Khải đã đề bạt trong niềm vui sướng quê hương hết bóng thù:
Đoạt sáo Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ cửu giang san
(Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức
Non nước cũ nghìn thu)
Làm quan trải qua bốn đời vua làm đến chức Thái sư nhưng lúc nào cũng có tinh thần phóng khoáng và độ lượng. Ông là một nhà nghệ sĩ giỏi và rất say mê âm nhạc, đã sáng tác rất nhiều khúc nhạc, lời ca, điệu múa. Ở dinh ông không ngày nào không mở cuộc chèo hát hay bày trò chơi, thế mà không ai cho ông là say đắm niềm vui mà quên công việc .
Giỏi âm nhạc, ông cũng có niềm say mê đặc biệt các ngôn ngữ nước ngoài, rất thích chơi với người nước ngoài, tìm hiểu phong tục, tập quán, văn hóa và triết lý của ho. Từ Thăng Long, ông thường cưỡi voi đến chơi thôn Đa-da-li - một thôn gồm người Việt gốc tù binh Chăm Chiêm Thành (Champa) , sau gọi trệch là thôn Bà Già, có lẽ ở mạn Cổ Nhuế, Từ Liêm - có khi ba bốn ngày mới về. Văn hóa Chăm nhất là về âm nhạc, triết lý không những lôi cuốn ông mà có ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội, văn hóa Việt Nam trong các triều đại Lý, Trần. Các điệu nhạc cung đình, chèo và quan họ trong dân gian đều có nguồn gốc ảnh hưởng từ văn hóa Chăm Chiêm Thành (2) (3). Một số kiến trúc chùa đình thời Lý-Trần trong giai đoạn này cũng có mang nét ảnh hưởng kiến trúc Chiêm Thành như một số hình tượng chim thần Garuda (3). Triết và đạo lý giữa hai dân tộc Việt Nam-Chiêm Thành cũng giao lưu và ảnh hưởng nhau. Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông lúc về hưu cũng đã thân hành không ngại đường xa qua Chiêm Thành bàn bạc, học hỏi và sống chung như anh em với vua quan Chiêm Thành trong một thời gian.
Nhà nghệ sĩ Trần Nhật Duật có tiếng là người học rộng, thiệp liệp sử sách nhất kinh thành và rất ham thích đạo giáo, thường khi mặc áo lông và đội mũ giống như đạo sĩ. Ông tìm hiểu triết lý của nhiều dân tộc khác ngoài Chiêm Thành. Ông hay đến chơi chùa Tương Phụ, nói chuyện với nhà sư người Tống, ngủ lại rồi về.
Khách nước ngoài đến kinh sư, thường được ông mời đến chơi nhà, nếu là người Tống, thì ngồi đối nhau, đàm luận suốt ngày. Sử gia Nguyên triều (Mông Cổ) tưởng ông là người Chân Định (Hà Bắc, Trung Quốc) chính cống. Nếu là người Chiêm hay người các dân tộc khác, ông đều theo quốc tục của họ mà tiếp đãi vì ông đã hiểu và tiếp thu văn hóa của ho.
Khi nhà Tống mất, năm 1274 Hồi Hột, đem 30 thuyền cùng binh lính, vợ con đến Đại Việt xin thần phục. Tất cả đều được phép ở kinh thành. Có người như Trần Trọng Vi được Thánh Tông trọng đãi, quyết tâm “Lưu lạc thà làm ma nước Việt”, chết đi được vua làm thơ điếu (4). Sau này trong quân của Trần Nhật Duật chống Mông Cổ có đạo quân Tống với quân phục Nam Tống dưới trướng. Khi quân Mông giáp trận với Trần Nhật Duật, các tướng sĩ Mông Cổ ngạc nhiên và sợ hãi tưởng nhà Tống đã trở lại. Đây là một tác động tâm lý đánh vào quân Nguyên Mông Cổ và quân cựu-Tống dưới quyền Nguyên góp phần vào sự thua trận của quân Mông ở các trận như Hàm Tử mà Trần Nhật Duật lãnh đạo.
Năm 1280, vua quan Triều thần được tin chúa đạo Đà Giang, miền núi Tây Bắc, Trịnh Giác Mật tụ họp dân nổi lên chống lại triều đình. Lúc này nhà Nguyên cũng đang sửa soạn đại binh đánh Đại Việt. Đất nước đang trong tình trạng khẩn trương trước hiểm họa ngoại xâm lớn lao. Để tập trung tâm trí và sức lực đối phó với quân Nguyên, vua Trần Nhân Tông sai Trần Nhật Duật làm An phủ sứ Đà Giang để giải quyết gấp rút sự cố nghiêm trọng này. Vị vương tử trẻ mới 27 tuổi này, dưới cờ hiệu "Trấn thủ Đà Giang", làm lễ ra quân lên đường đi Tây Bắc. Ông đã chinh phục tù trưởng Trịnh Giác Mật bằng phong tục "ăn bằng tay, uống bằng mũi" và được các dân tộc miền núi yêu mến như sau:
Biết được quân triều đình đến, chúa Đà Giang là Trịnh Giác Mật định ám hại nên sai người đưa thư dụ Trần Nhật Duật rằng: "Giác Mật không dám trái lệnh triều đình. Nếu ân chủ một mình một ngựa đến gặp, Giác Mật xin ra hàng ngay". Muốn thu phục được Giác Mật, Trần Nhật Duật mặc các tướng can ngăn, một mình một ngựa đến gặp chúa Đà Giang, chỉ mang theo mấy tiểu đồng cắp tráp đi hầu. Thản nhiên đi giữa rừng gươm giáo và đám lính dân tộc miền núi sắc phục kỳ dị cố ý phô trương để uy hiếp, Trần Nhật Duật nói với Giác Mật bằng chính ngôn ngữ và theo đúng phong tục rất ngan ngạnh chí khí của dân tộc vùng Đà Giang:
“Lũ tiểu đồng của ta khi đi đường thì nóng tai trái, vào đây thì nóng tai phải.”
Trịnh Giác Mật và các đầu mục đều kinh ngạc trước sự am hiểu tiếng nói và tục lệ của Trần Nhật Duật. Khi mâm rượu, có bầu rượu và dĩa thịt nai muối, được bưng lên, Trịnh Giác Mật đưa tay mời có ý thách thức. Ông không chút ngần ngại cầm thịt ăn rồi vừa nhai vừa ngửa mặt, cầm gáo rượu bầu từ từ dốc vào mũi hết sức thành thạo như người địa phương. Trịnh Giác Mật kinh ngạc thốt lên: "Chiêu Văn Vương là anh em với ta".
Trần Nhật Duật đáp lại "chúng ta từ xưa nay vẫn là anh em". Trần Nhật Duật sai tiểu đồng mở tráp lấy ra những chiếc vòng bạc trao cho từng đầu mục Đà Giang. Những người cầm đầu đạo Đà Giang hoan hỉ đón lấy tặng phẩm kết nghĩa theo đúng tục lệ của họ từ tay Trần Nhật Duật mà họ vừa nhận làm anh em. Đà Giang đã được quy thuận như thế: không đổ một giọt máu, không mất một mũi tên.
Trong chuyến đi trấn an Đà Giang này, Trần Nhật Duật cũng được một người Mường tên là Ma Văn Khải tặng một quyển sách dật sử viết bằng Man ngữ do tổ 5 đời là Ma Văn Cao soạn nói về cuộc đời của người Thổ tên Hoàng Quỳnh dưới triều Lý Thần Tông. Trần Nhật Duật sau này dịch từ Man ngữ ra chữ Hán với nhan đề “Lĩnh Nam dật sử” năm 1297. Đây là một bộ sách viết theo lối tiểu thuyết dài Trung hoa rất ly kỳ chia ra làm 28 hồi, giống như tiểu thuyết kiếm hiệp hiện đại, rất có giá trị về phương diện dân tộc, địa lý tư tưởng và văn hóa học . Trần Nhật Duật sau đó đã cùng Trịnh Giác Mật và vợ con về kinh thành gặp vua .
Thời vua Trần Nhân Tông, sứ giả sứ Sách Ma Tích (?, có lẽ là Sri Vijaya ở vùng đảo Sumatra) sang cống, không tìm được người phiên dịch. Cả Thăng Long chỉ có một minh Trần Nhật Duật dịch được. Đó là vì từ thời Thượng hoàng Trần Thái Tông, chàng vương tử Trần Nhật Duật đã chịu khó giao du với họ và học được tiếng nước họ rồi. Vua Nhân Tông thán phục, thường nói đùa: "Chiêu Văn vương có lẽ không phải người Việt mà là hậu thân của giống Phiên, Man".
Khi đã làm tể tướng, ông vẫn thường đến chơi nhà người Hoa kiều là Trần Đạo Chiêu, nói chuyện phiếm với nhau hàng giờ. Theo lệ cũ, sứ giả nước ngoài đến Thăng Long, tể tướng tiếp sứ không được cùng ngồi nói chuyện, phải thông qua một người phiên dịch, sợ hoặc có sự gi lầm lỗi thì đỗ cho người phiên dịch. Trần Nhật Duật thì không thế, mỗi khi tiếp sứ Nguyên đều nói chuyện trực tiếp, không muốn người phiên dịch. Đến khi sứ về nơi nghỉ thì dắt tay nhau cùng vào, ngồi uống rượu vui vẻ như bạn bè. Điều này chứng tỏ đặc tính con người nghệ sĩ của ông khi chúng ta biết rằng cách đó không lâu ông đã cầm quân chống Nguyên Mông Cổ xâm lăng. Trong số những người Tống đến ở Đại Việt có người phường hát tên Lý Nguyên Cát mang đến đất Việt lối “tuồng truyện”. Lý Nguyên Cát thường đến dinh của Trần Nhật Duật chơi, nơi mà “không ngày nào không mở cuộc hát xướng, làm trò”. Lối hát này sau được truyền vào cung vua và con của người đào hát tên Dương Nhật Lễ (con nuôi của thái tử đời vua Trần Minh Tông) được lên làm vua trong thời gian ngắn . Dương Ngọc Lễ suýt lật đổ triều Trần sớm hơn 30 năm, nếu không nhờ Trần Nghệ Tông rút về trấn Đà Giang nơi Trần Nhật Duật đã thu phục trước đây, để từ đó khôi phục lại ngôi vua cho nhà Trần.
Trần Nhật Duật là người nhã nhặn độ lượng, mừng giận không lộ ra sắc mặt. Trong nhà không hề chứa roi vọt để đánh đầy tớ. Cũng có khi ông đánh, thì trước hết kể tội lỗi rồi sau mới đánh. Mặc dầu tài hoa phóng khoáng nhưng trong việc nước ông rất trung thực và thẳng thắng. Việc nước và việc cá nhân là hai việc riêng biệt không thể để lẫn lộn. Vợ ông là Trịnh Túc phu nhân từng có việc nhờ cậy nói riêng với ông ở nhà. Ông giả tảng gật đầu. Đến khi ra phủ, người thư ký đem việc ấy trình với ông, ông không cho.
Để kết thúc về con người của ông, có một câu chuyện như sau. Có một lần có người kiện kẻ gia tỳ (người đầy tớ gái) của ông với Quốc Phụ (có lẽ là Huệ Vũ Đại Vương Trần Quốc Chân). Quốc phụ sai gia đồng đến bắt người đầy tớ. Cô đầy tớ gái chạy vào trong phủ tể tướng, người đi bắt đuổi đến nhà giữa, bắt trói, ầm ỉ. Vợ ông khóc nói: " Ông là tể tướng mà bình thường cũng là tể tướng, chỉ vì ông nhân nhu quá cho nên người ta mới khinh thường đến thế thôi". Trần Nhật Duật vẫn tự nhiên chẳng nói lại câu gì, chỉ khẽ sai người bảo người đầy tớ gái rằng:
" Mày cứ ra, đâu đâu cũng đều có phép nước."
Trần Nhật Duật xứng đáng là danh nhân Việt Nam, văn võ toàn tài, có thể được xem là ông tổ của ngành ngoại giao Việt Nam. Tuy làm đến chức tể tướng và thái sư nhưng không bao giờ tham lam quyền lực bởi vì sống trong lòng ông là một tinh thần nghệ sĩ độ lượng trong nét khảng khái và nhân hòa.
Thất bại lớn nhất của đời người là tự đại
Đáng thương nhất của đời người là tự ti.
Tự đại + Tự ti = thất bại đáng thương nhất
Đa tạ, nhưng cao nhân có chuyện nào ngoài chính sử không, những cái đó rất hay nhưng nhiều sách vở nói rồi.
Sở dĩ Trần Thủ Độ không được đặt tên đường là vì sự "trung" hay "gian" của ông còn được lịch sử bàn cãi nhiều. Ông là một vị tướng - 1 vị quốc sư tài ba nhưng lại mang trọng tội giết vua. Có người cho hằnh hành vi này là đúng là hợp thời cuộc. Vì Lý Huệ Tông là ông vua nhu nhược, bất tài, suôt ngày rượu chè mà bỏ bê triều chính, bỏ mặc nhân dân đói khổ lầm thang. Vì thế Ông mới ép Lý huệ Tông nhường ngôi cho Lý Chiêu Hoàn rồi sắp xếp cho Trần Cảnh lên ngôi. Ông chính là bản lề khép triếu Lý mở triều Trần. Nhưng ông không lên ngôi nên người đời không thể khép ông vào tội cướp ngôi được. Những người theo ý kiến ngược lại thì cho rằng, đạo quân thần cốt trọng chữ trung, Trần Thủ Độ hành động như vậy là phản quốc.
Cãi qua cãi lại ì xèo nên kết quả ông này không được đặt tên đường
Theo tôi đã đến lúc chúng ta đặt Ông về đúng vị trí của mình
" Đầu thần còn chưa rơi xuống đất xin bệ hạ chớ lo"
I don't like English, I hate foreign language My English is very "banana" But I must use it So i want to learn English and I can teach Vietnamese for who need it
my Y!M: chau_truong_sinh
ĐẠi ca LtDra làm tui chóng mặt quá, hic, choáng
I don't like English, I hate foreign language My English is very "banana" But I must use it So i want to learn English and I can teach Vietnamese for who need it
my Y!M: chau_truong_sinh
Có bác nào biết Trần Hưng Đạo có đạo đức tốt hay xấu hem ? Tớ chỉ thấy người ta nói về chiến công hiểm hách 3 lần đánh thắng quân Nguyên còn đời tư thì chả thấy nói
Triều nào chả có chuyện cướp ngôi hả bác, không "cướp" thì lấy đâu ra, cái đó to lắm, chả ai nhường đâu.
Lại phải khắc phục tính lười mà typing như cao nhân LtDra để phục vụ cái cô "dễ thương..." (chắc vậy) thôi. Trần Quốc Tuấn cũng có vài tính xấu...
Last edited by Quang; 12-15-2007 at 08:48 AM.